Trong mười năm qua, các nghiên cứu về Deuterium đã được thực hiện ở Hungary và Romania- những quốc gia có nguồn nước cạn kiệt Deuterium với chi phí thấp.
Nghiên cứu về Deuterium trên chuột ở Romania- Mức độ bức xạ thấp
Trong một nghiên cứu của Walther Bild (Giáo sư Sinh lý học, Trường Đại Học Y Dược Iasi, Romania), những con chuột được cho ăn DDW-30 trong khoảng thời gian 1 ngày và tiếp xúc với bức xạ dưới mức gây chết người (8,5 Grays).Nhóm đối chứng được cho sử dụng nước máy. Kết quả là nhóm thử nghiệm có tỷ lệ sống sót là 61% trong khi tỷ lệ sống sót của nhóm đối chứng là 25%. Nhóm thử nghiệm cũng duy trì số lượng bạch cầu và tiểu cầu trong hồng cầu bình thường.
Thử nghiệm DDW đối với các bệnh nhân ung thư ở Hungary
Nước cạn kiệt deuterium (DDW) dùng để điều trị ung thư trong mười năm qua. Ông ấy cho biết: “Sau khi tiêu thụ hơn 10 tấn nước cạn kiệt deuterium, chúng tôi không gặp bất kỳ sự suy giảm nào công thức máu, kích ứng màng nhầy, buồn nôn, nhức đầu v..v. .”
Đánh vào Bức tường Lão hóa
Leslie Eleazer Orgel FRS (Ông là một Nhà hoá học người Anh. Ông nổi tiếng với những lý thuyết về nguồn gốc của sự sống) cho rằng tỷ lệ tích lũy lỗi trong quá trình tổng hợp protein tăng lên theo cấp số nhân theo thời gian. Các khía cạnh khác của quá trình lão hóa cũng thể hiện sự phát triển theo cấp số nhân, chẳng hạn như tỷ lệ ung thư theo tuổi tác.
Điều này chỉ ra rằng vào cuối cuộc đời, một người sẽ đụng phải bức tường lão hoá, khi tính toàn vẹn của ADN đã bị tổn hại quá mức. Tại thời điểm đó, không có phương pháp nào sắp xếp lại tất cả ADN để kéo dài tuổi thọ.
Sự thoái hóa ADN bức xạ ion hóa
Bức xạ ion hóa tạo ra các cụm ion hóa và các tác nhân hóa học phản ứng trên quy mô phân tử ADN. Bức xạ ion hóa tác động lên ADN trong giai đoạn sao chép dẫn đến tổn thương như đứt gãy sợi đôi và rất khó sửa chữa.
Mối liên kết giữa hydro và Deuterium
Các liên kết hydro được tạo ra bởi một nguyên tử deuterium mạnh hơn so với một nguyên tử hydro bình thường và đã được chứng minh là có ảnh hưởng xấu đến ADN.
Các liên kết của Deuterium
Trong dung dịch nước, độ bền liên kết hydro của deuterium oxit lớn hơn khoảng 0,24 kcal / mol, tăng 6% so với nước tinh khiết. Cuma và Scheiner đã tính toán độ bền liên kết deuterium tăng lên cho các nhóm hữu cơ thông thường.
Do sự thay thế deuterium, độ bền liên kết hydro trong nước thay đổi. Như thể hiện trong Bảng 1, sự thay thế của một số nguyên tử hydro có ít ảnh hưởng (chẳng hạn như các nguyên tử dưới Min H-Bond D-Sub). Ngược lại, các thay thế khác có thể tạo ra phản ứng lớn (chẳng hạn như các thay thế dưới Crit H-Bond D-Sub). Hiệu ứng cực đại xảy ra khi tất cả các nguyên tử hydro được thay thế.
Liên kết hydro và Deuterium trong ADN
Liên kết hydro trong ADN là một phức hợp và liên quan đến các tương tác xếp chồng trong toàn bộ phân tử. Sử dụng enzym làm chất dẫn đường, độ bền liên kết của deuterium trong ADN có lẽ lớn hơn từ 0,5% đến 2% so với hydro.
Cơ chế hoạt động và vai trò của Deuterium trong quá trình lão hóa
Ngay từ năm 1974, deuterium đã được coi là nguyên nhân có thể gây ra lão hóa. Griffiths cho rằng deuterium ảnh hưởng xấu đến hình dạng của các phân tử enzyme tham gia vào quá trình ADN.
Enzyme sửa chữa ADN bị tổn thương do Deuterium
Một lượng lớn các enzym và protein đóng vai trò sao chép, sửa chữa ADN và sử dụng rộng rãi các liên kết hydro. Trong đó, protein p53 đóng vai trò đặc biệt.
Làm chậm quá trình sao chép ADN
Deuterium có thể ức chế các enzym như Dna, Primase hoặc polymerase. Nếu bất kỳ enzym
nào trong số này bị ức chế, tốc độ sao chép ADN có thể bị chậm lại khi ADN dễ bị bức xạ phá hủy nhất.
Việc ức chế quá trình sửa chữa ADN
Các enzym phức tạp phát hiện các đứt gãy và nối lại sợi ADN dựa trên các vị trí liên kết đặc biệt. Nếu deuterium có mặt ở những vị trí này, hiệu ứng steric và độ bền liên kết tăng lên có thể ức chế quá trình sửa chữa ADN.
Thông tin về người Hunza
Đã có rất nhiều tuyên bố về những người sống lâu ở các vùng miền núi, nhưng rất ít trong số này được chứng thực ngoại trừ những người ở vùng Hunza. Người Hunza nhận nước uống từ dòng chảy của sông băng, nước này cũng được sử dụng để tưới tiêu cho cây trồng của họ. Dựa vào vị trí địa lý và độ cao, chúng ta có thể suy ra rằng hàm lượng deuterium của vùng Hunza là bằng hoặc dưới 133 ppm.
Kết luận
Nước cạn kiệt Deuterium (DDW) không thay đổi thành phần hóa học khi tiêu hóa và có ảnh hưởng trực tiếp ở cấp độ tế bào. Tiêu thụ DDW có thể bảo vệ ADN khỏi bị hư hại và hỗ trợ các cơ chế sửa chữa ADN, nhưng nó không trực tiếp sửa chữa ADN.
Hiện vẫn chưa xác định, dựa trên kiến thức khoa học hiện tại, liệu tiêu thụ DDW có giúp trẻ hoá cơ thể hay không, nhưng điều này có thể trở thành một phương pháp điều trị hoặc can thiệp mới có thể hỗ trợ bảo vệ các tế bào và mô của cơ thể, cho phép chúng hoạt động hiệu quả hơn. Tác giả hy vọng rằng các nghiên cứu trong tương lai sẽ so sánh lượng deuterium trong nước uống của các môi trường có dân cư và phát triển so với các nước kém phát triển và dân cư thưa thớt
Theo https://www.h2-4you.com/history-of-deuterium-depleted-water/
Tác giả: John Hardgrave (H2 for You)- là người đứng đầu của một tổ chức chăm sóc sức khoẻ có tên “Flower of Light” với sứ mệnh cải thiện sức khỏe và hạnh phúc của khách hàng.
Năm 1964, một trong những phát hiện vĩ đại nhất trong sinh học đã được hình thành bởi Paul D. Boyer, một nhà sinh học phân tử của UCLA. Ông phát hiện ra rằng các động cơ nano protein nhỏ trong ti thể, nằm ở cuối Chuỗi truyền điện tử (ETC), mang trách nhiệm cuối cùng trong việc tạo ra ATP. Boyer đặt tên nó là “ATP Synthase”. Tổ hợp protein này, quay ở tốc độ 9000 vòng / phút, có cấu trúc và chức năng của một động cơ cơ khí, hoàn chỉnh với rôto, stato và từ trường. Sẽ còn 40 năm nữa khi bước sang thiên niên kỷ mới, trước khi tác động của deuterium lên ATP Synthase được phát hiện.
Vào đầu những năm 1960, deuterium, mặc dù là một đồng vị hydro, là một thứ hoàn toàn khác biệt; về mặt sinh hóa và lý sinh. Deuterium lớn gấp đôi khối lượng của proti do sự bổ sung của một neutron không có trong hydro thông thường. Không có nguyên tố nào khác có khối lượng chênh lệch quá lớn giữa các đồng vị của nó. Tuy nhiên, chức năng của deuterium ở cấp độ tế bào vẫn chưa được khám phá.
Sau 10 năm, vào năm 1974, một lần nữa tại Phòng thí nghiệm Quốc gia Argonne, nhà khoa
học người Anh T.R. Griffiths, tại Hội nghị quốc tế lần thứ 2 về đồng vị ổn định, đã đề xuất lý
thuyết rằng deuterium có thể là nguyên nhân chính gây ra sự lão hóa. Trong các vai trò của
Deuterium trong sự khởi đầu và lan truyền lão hóa cũng như các cơ chế và quá trình sinh hóa khác, ông ấy nhận định rằng, “Deuterium ảnh hưởng xấu đến hình dạng của các phân tử enzyme tham gia vào quá trình sao chép ADN”;
Ông quan sát thấy rằng deuterium có độ âm điện lớn hơn hydro, nặng gấp đôi và có các đặc tính liên kết nguyên tử khác với hydro bình thường (protium), can thiệp vào quá trình sao chép ADN. Khi các enzym sửa chữa ADN chứa deuterium ở vị trí dành riêng cho protium, chúng có thể tham gia vào một phản ứng lỗi, do đó làm ảnh hưởng đến quá trình sao chép và sửa chữa ADN.
Sau đó, năm 1975, J.D. Gleason và I. Friedman, mô phỏng lại mối quan hệ của người Nga với sự phát triển của thực vật, đã công bố nghiên cứu đầu tiên của Mỹ về việc sử dụng nước cạn kiệt deuterium (DDW) để tăng sự phát triển của ngũ cốc. Công bố này tuy nhỏ nhỏ nhưng có ý nghĩa quan trọng trên tạp chí NATURE đã mở đường cho thế hệ các nhà khoa học mới hiểu được chức năng của deuterium trong sinh học của các sinh vật sống.
Cũng theo https://www.h2-4you.com/the-science-behind-deuterium-depleted-water/
Nghiên cứu khoa học về nước cạn kiệt Deuterium
Tác giả: John Hardgrave (“H2 for You”)- là người đứng đầu của một tổ chức chăm sóc sức khỏe có tên “Flower of Light”, với sứ mệnh cải thiện sức khỏe và hạnh phúc của khách hàng.
Các sinh vật ở nhiều nơi trên thế giới có xu hướng có nồng độ deuterium tương đương với nước trong khu vực. Tuy nhiên, thực vật và động vật duy trì nồng độ deuterium thấp hơn so với nước trên bề mặt, điều này cho thấy rằng các sinh vật thích sống trong tình trạng cạn kiệt deuterium.
Nghiên cứu cho thấy việc tiêu thụ DDW làm giảm dần nồng độ deuterium trong cơ thể con người. Trong nhiều tuần và nhiều tháng, việc tiêu thụ DDW cho phép cơ thể đào thải deuterium dư thừa ra khỏi cơ thể. Điều này có thể làm giảm tác dụng phụ liên tục của deuterium (tức là lỗi ADN trong quá trình sao chép và sửa chữa). Đồng thời, một số thông số sức khỏe có thể được cải thiện. Công trình của Tiến sĩ Somlyai ở Hungary cho thấy các tế bào khỏe mạnh phản ứng tốt với việc giảm lượng deuterium trong nước. Tuy nhiên, các tế bào bị đột biến nhiễm sắc thể (ung thư) nhạy cảm hơn với sự suy giảm deuterium. Các tế bào ung thư, đặc biệt là các tế bào khối u, không thể thích ứng nhanh chóng, dẫn đến sự thoái triển của khối u mà không có bất kỳ tác dụng phụ nào đối với các tế bào khỏe mạnh. Tiến sĩ Somlyai và các đồng nghiệp của ông cũng nghiên cứu DDW đối với các bệnh rối loạn chuyển hóa – đặc biệt là bệnh tiểu đường – với kết quả khả quan. Từ một góc độ khác, có thể hiểu rằng nước có hàm lượng deuterium giảm có thể có khả năng truyền thông tin rõ ràng hơn. Neutron bổ sung có thể tạo ra một “vết lõm” trong tinh thể lỏng có liên quan đến việc lưu trữ và truyền thông tin.
Deuterium và ADN
Mặc dù các nhà nghiên cứu chính thống đã bỏ qua những tác động lâu dài của deuterium ở mức độ thấp, nhưng nghiên cứu chỉ ra rằng deuterium có liên quan đến đột biến ADN và tổn thương ADN sau đó. Deuterium ảnh hưởng đến hình dạng của các phân tử, bao gồm cả các enzym, tham gia vào quá trình tổng hợp và sửa chữa ADN. Sự hiện diện của deuterium trong các enzym này làm chậm quá trình sao chép ADN, gây ra lỗi phiên mã và cản trở việc sửa chữa ADN.
Deuterium cũng ảnh hưởng đến các quá trình sinh học thông qua cơ chế liên kết hydro.
Các liên kết hydro đóng một vai trò quan trọng trong cấu trúc ADN và chịu trách nhiệm về hình dạng xoắn ốc của nó. Các liên kết do deuterium tạo ra mạnh hơn các liên kết hydro thông thường mà chúng thay thế. Liên kết deuterium chặt chẽ hơn làm cứng các protein và cần nhiều năng lượng hơn để phá vỡ trong các phản ứng trao đổi chất. Lớp enzyme và protein đóng vai trò trong quá trình sao chép và sửa chữa ADN sử dụng rộng rãi các liên kết hydro — một lý do khác khiến deuterium có tác động tiêu cực đến ADN.
Deuterium cũng can thiệp vào chuyển động bình thường của proton trong bất kỳ kênh proton nào — bao gồm các kênh liên quan đến sản xuất ATP (năng lượng).
Sự hiện diện của nó làm cho cơ chế gián đoạn, làm giảm hiệu quả. Với nồng độ bình thường của deuterium, hiện tượng “gián đoạn” xảy ra khoảng 15 giây một lần trong mỗi kênh proton. Được nhân lên bởi hàng triệu kênh proton trong một cơ thể sống, điều này đạt đến tỷ lệ khổng lồ. Với những tác động này (và những tác động khác), deuterium hiện được cho là đóng một vai trò quan trọng trong sự tiến triển của bệnh và lão hóa.
Deuterium và sự lão hoá
Lý thuyết được chấp nhận phổ biến nhất về quá trình lão hóa cho rằng quá trình lão hóa có liên quan đến sự tích tụ dần các lỗi trong ADN. Theo Kirk Goodall, nhân viên kỹ thuật cấp cao của NASA, số lượng lỗi không thể sửa chữa được trong chuỗi ADN bị ảnh hưởng trực tiếp bởi deuterium. Nồng độ deuterium càng thấp, tần số sai sót không thể sửa chữa trong cấu trúc ADN càng thấp.
Deuterium và năng lượng sinh học
Tầm quan trọng trung tâm của chu trình TCA trong các con đường sinh hóa khiến nó trở thành mục tiêu quan trọng để kiểm soát sự trao đổi chất của tế bào và ngăn ngừa bệnh tật.
Sản xuất nước trao đổi chất liên quan đến chức năng phức hợp-IV của chất nền ti thể cung cấp một cơ chế mới để kiểm soát hàm lượng deuterium của tế bào thông qua quá trình oxy hóa cơ chất ketogenic nghĩa là có ít deuterium từ dầu và chất béo.
Sản xuất nước trao đổi chất trong chất nền ti thể, dựa trên quá trình oxy hóa cơ chất xeton, duy trì sức khỏe thông qua việc chuyển chất nền deuterium thấp từ chu trình TCA để tạo gluconeogenesis.
Ví dụ, nước trao đổi chất kiểm soát hàm lượng deuterium của đường deoxyribose nucleotide từ quá trình rút ngắn chuỗi axit béo và tái phân phối lại hàm lượng deuterium acetyl-CoA thấp. Những phản ứng này liên quan đến các liên kết hydro kiểm soát các tác động gây ung thư liên quan đến deuterium, có thể được khai thác trong các liệu pháp và phòng ngừa ung thư, chống lão hóa và chống thoái hóa. Phù hợp với những điều trên, tác động của deuterium thấp (2H) trong nước đã được chứng minh là kiểm soát sự tăng sinh tế bào trong nhiều hệ thống sinh học trong ống nghiệm và trong cơ thể sống, cũng như trong các nghiên cứu trên người. Hiệu quả lâm sàng của nước cạn kiệt deuterium (DDW) đã được chứng minh rõ ràng. Sự thoái triển hoàn toàn hoặc một phần khối u đã được tìm thấy ở những con chuột được cấy ghép với các tế bào ung thư biểu mô tuyến vú ở người MDA-MB-231, MCF-7 và các tế bào khối u tuyến tiền liệt ở người PC-3.
Tác dụng chống ung thư của việc giảm 2H đã được xác nhận trong một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn II mù đôi, ngẫu nhiên, kéo dài 4 tháng trên ung thư tuyến tiền liệt. Quá trình theo dõi kéo dài cho thấy rằng sự suy giảm 2H làm chậm sự tiến triển của bệnh. DDW là một phương thức điều trị tích hợp mới đầy hứa hẹn trong bệnh ung thư và phòng ngừa nó bằng cách giảm tải lượng deuterium ngoài ti thể vào ADN tế bào. Suy giảm Deuterium, ngoài các phương pháp điều trị thông thường, cải thiện khả năng sống sót trung bình ở bệnh nhân ung thư phổi, ngay cả trong các bệnh tiến triển phức tạp do di căn ở não. Ở bệnh nhân ung thư vú, điều trị DDW, kết hợp với, hoặc mở rộng, các liệu pháp thông thường, cải thiện đáng kể tỷ lệ sống sót khi bệnh tiến triển và có hiệu quả trong việc ngăn ngừa tái phát ung thư vú giai đoạn đầu.
Deuterium, Ti thể & Chu trình TCA
Sự gia tăng sản xuất ATP do bức xạ tia hồng ngoại gây ra là kết quả của việc giảm độ nhớt của nước bề mặt, giúp bôi trơn các vết lõm nano của tiểu đơn vị F1 chuyển đổi nhanh chóng của ATP synthase trong chất nền ti thể.
Ngược lại, sự gia tăng độ nhớt do thay thế deuterium trong nước làm giảm tốc độ quay nhanh chóng (9000 vòng / phút) của tiểu đơn vị F1 thuộc ATP synthase, được xem như phụ thuộc vào liều lượng trong quá trình sản xuất năng lượng ở các tế bào cơ của tim. Do đó, nhóm nước của chất nền ti thể, chiếm ưu thế 100% là nước bề mặt, rất nhạy cảm với hàm lượng deuterium của các chất dinh dưỡng bị oxy hóa, do đó, xác định hàm lượng deuterium và độ nhớt của như một chất bôi trơn sinh học.
Các chất nền tự nhiên có hàm lượng deuterium thấp kiểm soát trực tiếp thông qua việc giảm hàm lượng deuterium trong nước như cơ chế thắt cổ chai của tất cả các quá trình chuyển hydro để phosphoryl hóa oxy hóa trong ti thể liên kết. Do đó, sự suy giảm deuterium thông qua quá trình sản xuất nước trao đổi chất trong chất nền ti thể nên được coi là cơ chế chính để điều chỉnh chu trình axit tri-cacboxylic và là quá trình đường phân, cũng như tất cả các quá trình tế bào đồng hóa và dị hóa được kết nối thông thường để duy trì sức khỏe của tế bào. Ti thể bị lỗi do sản xuất nước hạn chế và sự suy giảm deuterium có thể là những sự kiện trao đổi chất phổ biến trong quá trình phát triển ung thư ở tuyến tụy và các cơ quan khác.
Cách Deuterium làm tổn thương chúng ta
Theo https://www.h2-4you.com/how-deuterium-hurts-us/
Tác giả: John Hardgrave (“H2 for You”)- là người đứng đầu của một tổ chức chăm sóc sức khỏe có tên “Flower of Light”, với sứ mệnh cải thiện sức khỏe và hạnh phúc của khách hàng.
Nước bạn uống có thể khiến bạn bị bệnh không?
Deuterium. Đây có thể là lần đầu tiên bạn nghe nói về chất này. Nó là gì, và tại sao nó lại có trong nước uống và thực phẩm chúng ta sử dụng hằng ngày?
Deuterium là một đồng vị bền của hydro. Tất cả mọi thứ đều được tạo thành từ các nguyên tử. Những thứ nhỏ bé này kết hợp với nhau để tạo thành các phân tử tạo nên mọi vật thể vật chất trên thế giới. Hiện tại tất cả các nguyên tử này đều được tạo thành từ proton, neutron và electron. Đồng vị là những nguyên tử của cùng một nguyên tố (nước là một nguyên tố) nhưng có số nơtron khác nhau, khiến chúng có khối lượng nguyên tử khác nhau.
Deuterium có thêm một neutron làm cho nó “nặng” hơn phần hydro có trong nước. Điều này khiến nó trở thành “chất đồng vị”. Vậy chất đồng vị này làm tổn thương cơ thể chúng ta như thế nào?
Hãy coi cơ thể của bạn như một chiếc xe hơi. Ti thể của bạn là “động cơ” làm cho xe của bạn di chuyển trên đường. Ti thể của bạn cần nước để hoạt động như động cơ ô tô cần khí để chạy. Bây giờ, hãy tưởng tượng nếu có một chiếc cờ lê van khí nhỏ trong xe của mình. Điều gì sẽ xảy ra với động cơ ô tô của bạn nếu bạn ném cờ lê vào đó? Nó sẽ vỡ ra, phải không? Đó là những gì sẽ xảy ra với ti thể của cơ thể bạn khi bạn uống nước deuterium. Deuterium quá “nặng” để ti thể sử dụng và phá hủy động cơ của tế bào. Khi bạn phá hủy động cơ của tế bào, bạn tạo ra một môi trường tối ưu cho bệnh tật và ốm đau xảy ra.
Đặc điểm khi quá nhiều deuterium trong cơ thể:
⦁ Làm giảm khả năng sản xuất năng lượng của bạn.
⦁ Làm giảm khả năng sử dụng năng lượng.
⦁ Làm biến dạng cấu trúc ba chiều của protein, chất béo và carbohydrate mà cơ thể bạn tạo ra.
⦁ Không cho phép ADN của bạn gấp lại và sao chép đúng cách.
⦁ Thay đổi sự liên kết của các phản ứng enzym trong bạn.
⦁ Thay đổi dược động học và dược lực học của các loại thuốc, thực phẩm chức năng và các phương pháp điều trị khác.
⦁ Cuối cùng nó có thể kiểm soát bạn là ai và cách bạn phản ứng với các phương pháp điều trị lâm sàng.
Mối liên hệ giữa Ung thư và Deuterium là gì?
Theo https://www.h2-4you.com/what-is-the-link-between-cancer-and-deuterium/
Bài đăng này được trích từ cuộc phỏng vấn của Tiến sĩ Somlyai bởi Kriben Goranty.
Tiến sĩ Gabor Somlyai tốt nghiệp và nhận bằng tiến sĩ chuyên ngành vi sinh vật học vào năm 1982. Ông đã đưa ý tưởng của mình về hydro-deuterium để điều chỉnh sự phát triển ung thư vào việc nghiên cứu bệnh ung thư năm 1990. Đọc để tìm hiểu cách chúng ta ăn uống có thể ảnh hưởng đến hàm lượng deuterium như thế nào, các tế bào ung thư bị ảnh hưởng như thế nào bởi hàm lượng deuterium bình thường trên toàn thế giới và cách chúng ta có thể giảm nguy cơ ung thư.
Kriben: Nhà hóa sinh Albert Szent-Gyorgyi có ý nghĩa gì đối với bạn?
Gabor: Albert là một nhà khoa học người Hungary, người đã phát hiện ra vitamin C và tầm quan trọng của nó. Ông ấy cho rằng bạn phải đi đến cấp độ dưới phân tử để giải quyết vấn đề ung thư. Chúng ta đang tiến gần đến một bước đột phá trong nghiên cứu ung thư bởi vì nghiên cứu này đã bắt đầu từ 50 năm trước. Ông ấy hiểu rằng cuộc sống quá phức tạp và những phân tử lớn đó không thể sắp xếp nó. Ở những nơi có proton, bạn cần một electron; nếu có một electron, bạn cần một proton tích điện dương.
Albert là nguồn cảm hứng to lớn đối với tôi, và vào năm 1976, tôi hiểu rằng hydro là chìa khóa trong sự phát triển của bệnh ung thư. Sau đó, tôi đã ghi nhớ điều này trong tâm trí của mình. Bốn năm sau, tôi đã tìm hiểu về entropy pH; vào lúc này, tâm trí tôi hiện lên nhiều hydro. Tôi tin rằng deuterium là chìa khóa quan trọng trong hệ thống sinh học phân tử.
Kriben: Deuterium có thay thế Hydro không?
Gabor: Trong quá trình tiến hóa, đã có thời điểm vi khuẩn nhỏ có thể điều chỉnh sự sống ở cấp độ phân tử. Nhưng con người và động vật phức tạp hơn rất nhiều. Hãy nghĩ về những điều này:
⦁ Trong tế bào có nhân có đường kính 100 micromet
⦁ Trong nhân, có ADN dài 1,8 mét nếu nó được kéo dài ra
⦁ ADN được gói trong nhân, chỉ dài 100 micromet
⦁ Nó quá nhỏ, và chứa ADN dài 1,8 mét
⦁ Nó bao gồm 25.000 gen
Trong một tế bào đơn bào, 2000 quá trình sinh hóa hoạt động hoàn hảo.
Cơ thể của chúng ta bao gồm 37 nghìn tỷ tế bào, tất cả đều hài hòa với nhau và ổn định. Vì vậy, câu hỏi đặt ra là, làm thế nào sự sống có thể tổ chức một hệ thống phức tạp như vậy? Tế bào có thể làm được điều này bởi vì nó được tổ chức và điều chỉnh ở mức độ phân tử. Điều này có nghĩa là các tế bào có thể sửa đổi tỷ lệ HDO và các phân tử sẽ thực hiện theo tỷ lệ. Có deuterium trong cơ thể chúng ta là bình thường, và nó cũng có trong tự nhiên. Chúng ta có deuterium trong Trái đất, trong đại dương, trong thức ăn của chúng ta, và trong bề mặt nước. Vấn đề quan trọng là khi một người nào đó bị ung thư hoặc một căn bệnh khác. Câu hỏi đặt ra là cách chúng ta có thể chữa khỏi hoặc điều trị chúng và liệu chúng ta có thể điều chỉnh hệ thống phân tử hay không. Đây là tất cả những gì chúng tôi đang nghiên cứu.
Kriben: Vì vậy, bạn đang cố gắng thiết lập cách để các tế bào có thể điều chỉnh tỷ lệ này?
Gabor: Đúng vậy, chúng tôi đã xuất bản bài báo đầu tiên vào năm 1993, “Deuterium xuất hiện tự nhiên rất cần thiết cho tốc độ phát triển bình thường của tế bào.” Trong nghiên cứu này, tôi đã kiểm tra cách thức nuôi cấy tế bào hoạt động và phát triển trong môi trường nước cạn kiệt deuterium. Khi tôi đặt nó vào nước đã cạn kiệt deuterium, sự phát triển của tế bào ngừng lại. Chúng tôi cũng đưa bệnh ung thư vú ở người vào chuột và thay nước của chúng bằng nước bị cạn kiệt deuterium. Điều này đã loại bỏ sự phát triển của khối u ở chuột. Vì vậy, dữ liệu này cho thấy rằng bệnh ung thư cần có deuterium để kìm hãm và hạn chế sự phát triển của tế bào ung thư ở chuột.
Khi hormone tăng trưởng liên kết với màng sẽ kích thích natri hydro, độ pH tăng lên khi nồng độ hydro trong tế bào giảm. Đây là một tín hiệu cho lượng tế bào nhân lên, nhưng không ai có thể giải thích tín hiệu này. Nhưng chúng tôi hiểu rằng khi hormone tăng trưởng liên kết với màng và kích thích hệ thống vận chuyển hydro, hàm lượng deuterium sẽ tăng lên trong tế bào. Màng sẽ phân biệt giữa hai hydro. Nếu trong tế bào có tế bào ung thư, thì tế bào đó sẽ nhân lên. Đây được gọi là “bộ máy gia tốc”.
Câu hỏi đặt ra là “phanh” ở đâu? Hệ thống “phanh” nằm trong ti thể. Khi chúng ta ăn thức ăn, chúng ta đốt cháy nó thành carbon dioxide và nước trao đổi chất. Tất cả mọi người, mỗi ngày, sản xuất ra nước thiếu deuterium trong cơ thể. Đây là những gì các tế bào khỏe mạnh thực hiện. Nếu chúng ta so sánh các tế bào ung thư, thì đâu là điểm khác biệt? Các ti thể. Trong các tế bào khỏe mạnh, ti thể hoạt động bình thường. Chúng có thể tạo ra nước trao đổi chất bị cạn kiệt deuterium. Nhưng chúng ta biết rằng các ti thể không hoạt động bình thường với các tế bào ung thư. Các tế bào ung thư không thể tạo ra nước trao đổi chất bị cạn kiệt deuterium. Các ti thể bị hư hỏng trong các tế bào bị tổn thương cho phép tỷ lệ deuterium và hydro mất cân bằng, và bệnh ung thư sẽ phát triển.
Kriben: Ti thể là gì?
Gabor: Trong tế bào có nhiều bào quan. Một trong số đó là ti thể. Ti thể tạo ra ATP khi chúng ta ăn năng lượng được tích trữ trong thức ăn. Các tế bào có thể sử dụng nó như một nguồn năng lượng cho các phản ứng hóa học khác. Ti thể được bao phủ bởi một lớp màng kép và có các nanomet ATPase, một nhóm các enzym trên màng tế bào.
Các ti thể quay 9000 lần mỗi phút và ion hydro cung cấp năng lượng cho ti thể. Điều cần thiết là ti thể và ATPase phải tách biệt với bất kỳ deuterium nào ưa thích hydro vì chúng sẽ sử dụng hydro làm nhiên liệu cho quá trình này.
Vấn đề quan trọng khác với ti thể là nguồn carbon. Những gì chúng ta ăn sẽ quyết định mức độ deuterium của nước chuyển hóa. Khi tôi đến siêu thị, tôi bắt đầu xem xét các loại thực phẩm khác nhau, bao gồm:
⦁ Phô mai tươi
⦁ Bơ
⦁ Đường
Tôi tách nước ra khỏi mỗi loại thực phẩm và xem xét hàm lượng deuterium. Chúng chỉ ra carbohydrate chứa 150 ppm. PPM có nghĩa là có 150 deuterium trên một triệu phần. Khi chúng tôi kiểm tra hàm lượng chất béo (bơ và phô mai tươi), nó thấp hơn NHIỀU ở mức 118ppm. Khi chúng ta ăn nhiều carbohydrate, ti thể tạo ra nước deuterium, và nồng độ này sẽ cao hơn so với khi chúng ta tiêu thụ chất béo. Mọi người cho rằng chất béo rất có hại và 60% lượng thức ăn của bạn phải là carbohydrate, nhưng hàm lượng deuterium của chúng ta sẽ cao hơn so với những người khác với chế độ ăn giàu chất béo. Việc tiêu thụ tất cả lượng chất béo này trong ngày là bình thường, và bây giờ, nhiều loại thực phẩm có hàm lượng chất béo thấp.
Những gì chúng ta ăn, cách chúng ta di chuyển và cách chúng ta suy nghĩ có thể thay đổi hàm lượng deuterium trong cơ thể. Màng tế bào có thể làm tăng hàm lượng deuterium; ti thể sẽ đẩy xuống. Nó cũng giống như trò chơi thôi mà.
Kriben: Có phải bạn đang cho rằng các yếu tố trong chế độ ăn uống của carbohydrate và chất béo sẽ có tác động lớn đến khả năng làm cạn kiệt deuterium của tế bào và carbohydrate có lượng deuterium cao hơn có thể dẫn đến các tế bào có hàm lượng deuterium cao hơn trong khi tiêu thụ chất béo sẽ làm giảm hàm lượng deuterium này?
Gabor: Đúng vậy.
Kriben: Bạn cũng có thể nói về sự khác biệt giữa Chu trình TCA và Pentose Phosphate? Có sự khác biệt giữa việc trao đổi chất diễn ra theo 2 chu trình này không?
Gabor: Tất cả các quá trình sinh hóa phụ thuộc và biến đổi lẫn nhau. Tỷ lệ deuterium hydrogen nên ở cuối hoặc đầu của quá trình này. Chúng tôi đã thực hiện các nghiên cứu trong đó chúng tôi gắn nhãn glucose thành carbon 13, glucose được cung cấp cho các tế bào, sau đó chúng tôi tách các phân tử. Bản đồ chất lỏng của cacbon 13 và các phân tử khác nhau đi kèm với glucose. Đó là nơi chúng tôi có thể tìm thấy sự khác biệt lớn giữa nước bình thường và nước cạn kiệt deuterium. Chúng ta có thể thấy rằng hàm lượng deuterium có thể thay đổi TẤT CẢ các quá trình sinh hóa trong cơ thể và tế bào của chúng ta.
Kriben: Deuterium ảnh hưởng như thế nào đến ti thể?
Gabor: Chúng tôi đã tiến hành một cuộc nghiên cứu với các vận động viên. Một nhóm vận động viên tiêu thụ 105 ppm DDW giảm từ 150 DDW bình thường của họ trong 44 ngày, trong khi những người khác sử dụng nước uống bình thường.
Có một bài kiểm tra khi bắt đầu và kết thúc nghiên cứu. Có sự khác biệt lớn giữa hai nhóm. Nhóm tiêu thụ nước thiếu deuterium có axit lactic xuất hiện muộn hơn trong quá trình thử nghiệm. Điều này cho thấy rằng các ti thể hoạt động hiệu quả hơn. Quá trình oxy hóa glucose của họ tốt hơn nhiều. Điều này cho thấy hàm lượng deuterium thấp hơn có thể giúp ti thể và ATPase tổng hợp ATP hiệu quả hơn, VÀ nó có đủ oxy để oxy hóa carbohydrate.
Mức đường huyết không thay đổi trong 5 phút đầu tiên của bài kiểm tra tải trọng. Nó làm giảm lượng glucose, cho thấy rằng quá trình oxy hóa có thể sử dụng hết lượng glucose một cách hợp lý hơn. ATPase quay 9.000 lần mỗi phút và deuterium có thể làm hỏng ti thể và ATPase. Đó là lý do tại sao nước cạn kiệt deuterium rất hữu ích cho những vận động viên này.
Kriben: Phạm vi bình thường của hàm lượng deuterium là bao nhiêu?
Gabor: Hàm lượng deuterium bình thường của nước trong đại dương là 155 ppm. ở Châu Âu, nước là 145 ppm, và nếu bạn đi đến cực bắc hoặc nam thì nó sẽ thấp hơn. Nếu chúng ta nhìn vào milimol thay vì ppm trong cơ thể, hàm lượng deuterium cao hơn 6 lần so với lượng canxi trong máu và cao hơn 9 lần so với mức magiê trong máu. Kể từ những năm 1930 khi deuterium được phát hiện, con người đã tìm thấy rằng 6.600 / 1 là tỷ lệ giữa hydro và deuterium và mọi người đều muốn bỏ qua nó bởi vì 6.600 / 1 không phải là một con số lớn… Nhưng nếu bạn kiểm tra milimol, 12 milimol là cực kỳ cao trong một sinh vật sống. Deuterium rất cần thiết và quan trọng, nhưng có quá nhiều thì nó có thể gây hại cho cơ thể.
Trong suốt cuộc đời, điều quan trọng là phải tự xác định được hàm lượng deuterium trong cơ thể là bao nhiêu. Nếu nó là 150 ppm, chúng ta có thể có nguy cơ mắc bệnh ung thư cao hơn mức 140 ppm.
“Gần đây chúng tôi đã tiến hành thử nghiệm trên các mẫu nước ở Úc đến từ vòi, nước đóng chai và chúng đều ở mức khoảng 155 ppm. Tôi nghĩ rằng về mặt địa lý, Úc là con chim hoàng yến trong mỏ than. Toàn bộ khu vực có hàm lượng deuterium cao. Chúng tôi đang thấy rất nhiều vấn đề về sức khỏe ở đất nước này. Hy vọng rằng mọi người sẽ xem xét các lựa chọn thay thế trong nước và những thứ hàm lượng deuterium thấp hơn.” – John Hardgrave
Kriben: Ung thư liên quan đến ti thể như thế nào, và Deuterium ảnh hưởng như thế nào đến tình trạng bệnh?
Gabor: Phải mất 4-5 năm để tế bào đơn lẻ đó hình thành khối u. Khi đó, kích thước khối u có thể là 1 cm. Không phải là “Hôm qua tôi khỏe mạnh, hôm nay tôi bị ung thư.” Căn bệnh ung thư đó bắt đầu từ nhiều năm trước. Cũng là một sai lầm lớn khi nghĩ rằng bệnh ung thư đã biến mất khi khối u được cắt bỏ và bạn tin rằng mình khỏe mạnh. Trong vòng 4-5 năm đó, các tế bào khối u có thể rời khỏi khối u chính và những tế bào đó có thể tiếp tục tồn tại. Chúng ta không bao giờ có thể nhận định rằng khối u đã được loại bỏ kịp thời; chúng ta chỉ có thể loại bỏ khối u ở giai đoạn đầu hoặc giai đoạn cuối chứ không bao giờ kịp thời.
Chúng ta có thể thay đổi xác suất bị ung thư hoặc không bị ung thư trong suốt cuộc đời của mình. Bạn cần phải tìm ra đột biến trong bộ gen và các gen trong quá trình phát triển của khối u. Ý kiến khác cho rằng hệ thống trao đổi chất là nguyên nhân dẫn đến sự phát triển của ung thư. Chúng ta có thể chứng minh rằng đột biến gen có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư. Hàm lượng deuterium cao hơn có thể gây ra đột biến, vì vậy khi ADN nhân bản, deuterium có thể làm tăng tỷ lệ đột biến và tăng khả năng đột biến ở một vùng.
Kriben: Chúng ta có thể làm gì trong suốt cuộc đời để giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư?
Gabor: Hàm lượng deuterium thấp hơn sẽ làm giảm nguy cơ ung thư. Đối với những người khỏe mạnh, tiêu thụ nước thiếu deuterium trong 3-4 tháng mỗi năm sẽ rất tốt vì chúng ta có thể giảm lượng deuterium này. Các tế bào khối u không thể chịu được sự thay đổi này. Do các ti thể bị hư hỏng và các quá trình trong tế bào ung thư, chúng đòi hỏi phải có deuterium. Các tế bào ung thư đó có thể được loại bỏ bằng cách cho nước cạn kiệt deuterium vì chúng không thể xử lý được sự thay đổi này. Khi chúng ta giảm hàm lượng deuterium từ bên ngoài, chúng ta đang làm loãng hàm lượng bình thường trong cơ thể.
Chúng tôi có một cơ sở dữ liệu về 171 bệnh nhân ung thư đã được phẫu thuật và sau đó uống nước đã loại bỏ deuterium để ngăn ngừa tái phát. Dữ liệu của chúng tôi cho thấy chúng tôi chỉ mất 11 bệnh nhân trong số đó. Trong đó có 7 bệnh nhân tử vong khi uống nước cạn kiệt deuterium, phải nghỉ ngơi và uống lại trong vài tháng, sau đó họ hoàn toàn dừng lại, và 5 năm sau, họ qua đời.
Điều đó có nghĩa là chúng ta có thể ngăn ngừa phần lớn sự tái phát ung thư cho những người đã trở lại và lặp lại quá trình này hàng năm. Nếu chúng ta tiêu thụ lượng nước này, các tế bào ung thư không thể dung nạp được chúng và sẽ chết đi. Chúng ta có thể giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư VÀ tái phát ung thư.
Kriben: Tôi khá sốc vì chưa bao giờ nghe thấy thông tin này sớm hơn. Nếu bạn đã làm việc này trong hơn 30 năm, tại sao thông tin này không được nói đến rộng rãi hơn. Chỉ riêng ở Úc, cứ 2 người sẽ có 1 người mắc bệnh ung thư. Tôi hy vọng thông điệp này đến được với mọi người với lời hứa rằng thông tin này là sự thật. Không chỉ để chữa bệnh mà còn là một biện pháp phòng ngừa để giúp mọi người có một cuộc sống tuyệt vời để sống không mắc bệnh ung thư.
Gabor: Ngành công nghiệp dược phẩm sẽ tìm ra các phân tử. Họ đang tìm kiếm các gen gây ra bệnh ung thư và đang chi hàng tỷ đô la để chữa bệnh cho mọi người. Tôi hiểu rằng mọi người đang nghi ngờ về lý do tại sao nước thiếu deuterium lại tốt cho việc chữa bệnh ung thư, nhưng đã đến lúc sử dụng loại nước này. Giá thuốc điều trị ung thư cao nhưng hiệu quả lại thấp. Ngay cả khi sử dụng thuốc, con người vẫn mất đi. Khoa học phải tìm ra lý do và điều gì đang xảy ra với bệnh ung thư.
Về lâu dài, chúng ta cần nghiên cứu các nồng độ khác nhau của nước bị cạn kiệt deuterium để làm thuốc. Đây là cách duy nhất mà mọi người có thể làm được. Chúng ta phải hướng dẫn các bác sĩ chuyên khoa ung thư về việc sử dụng nước cạn kiệt deuterium trong liệu pháp điều trị của họ. Chúng ta phải tích hợp sự suy giảm deuterium vào phương pháp điều trị hiện có. Điều này sẽ giúp tăng cơ hội sống sót cho bệnh nhân ung thư.
Nhìn chung, chúng ta cần chú ý đến hàm lượng deuterium trong nước của gia đình. Hãy cẩn thận với những gì mọi người đang tiêu thụ.
Kriben: Thông tin này cũng liên quan đến sức khỏe đường ruột. Tất cả các tế bào ruột đều có ti thể. Các tế bào ruột này tự bổ sung sau 24-48 giờ. Ti thể phải hoạt động tốt. Nếu ti thể và niêm mạc ruột không hoạt động bình thường, điều này có thể dẫn đến nhiều vấn đề như ruột bị rò rỉ.
Vì vậy, hãy cố gắng cung cấp nguồn nước có hàm lượng deuterium thấp nhất mà bạn có thể tìm thấy. Điều này sẽ làm chết các tế bào ung thư và ngăn không cho chúng phát triển. Và tốt cho đường ruột của bạn vì các tế bào ruột hoạt động hiệu quả hơn. Tiêu thụ nhiều chất béo tốt thay vì carbohydrate sẽ giúp bạn có lợi thế ngay từ đầu. Tập trung vào chất béo lành mạnh để giảm hàm lượng deuterium. Chia sẻ thông tin với bạn bè để được nhận được những ích lợi từ thông tin này.
Nước cạn kiệt Deuterium là gì?
Theo https://www.osmiowater.co.uk/osmioblog/what-heppens-to-your-body-when-you-drink-deuterium-depleated-water.html
Đó là nước có hàm lượng deuterium giảm. Deuterium là một dạng đồng vị “xấu” của hydro, được tìm thấy trong bất kỳ loại nước tích tụ tự nhiên nào. Trung bình mỗi nước tự nhiên có 150 phần triệu deuterium / lít, do đó cứ 1 nguyên tử hiđrô trong số 6000 deuterium. Nước cạn kiệt Deuterium có hàm lượng deuterium rất thấp (25 – 125 ppm).
Điều gì xảy ra với cơ thể bạn khi bạn uống nước cạn kiệt Deuterium?
Giữ đủ nước là một phần quan trọng của sức khỏe, liệu bạn có thể tưởng tượng được sẽ tuyệt vời như thế nào nếu nước giúp bạn phục hồi sức khỏe?
Nước cạn kiệt Deuterium ảnh hưởng gì đến cơ thể bạn?
Bằng cách thay đổi mức deuterium của nước uống dưới mức tự nhiên, hàm lượng deuterium trong cơ thể có thể được giữ ở mức khuyến nghị (135 ppm và thấp hơn). Do đó, cân bằng nội môi của sinh vật có thể được duy trì trong thời gian dài. Cơ thể con người có thể tự làm cạn kiệt deuterium. Tuy nhiên, khả năng làm điều đó của cơ thể giảm dần theo tuổi tác, bệnh tật và sự thiếu hụt vitamin D.
Lợi ích sức khỏe mà nước cạn kiệt Deuterium mang lại:
Tăng cường hệ thống miễn dịch và giải độc
Tăng cường chuyển hóa glucose
Tăng tỷ lệ trao đổi chất
Có tác dụng bảo vệ tim và gan
KHẢ NĂNG ẢNH HƯỞNG CỦA NƯỚC CẠN KIỆT DEUTERIUM:
Cải thiện tâm trạng và trí nhớ
Làm giảm tình trạng kháng insulin
NƯỚC CẠN KIỆT DEUTERIUM CÓ AN TOÀN KHÔNG?
Nước cạn kiệt Deuterium không thể gây hại cho bạn theo bất kỳ cách nào, vì nó không chứa bất kỳ hóa chất nào và trong quá trình cạn kiệt, không có hóa chất nào được sử dụng. Chưa có một phản ứng bất lợi nào khi sử dụng nước cạn kiệt Deuterium kể từ các thử nghiệm lâm sàng từ những năm 1980 trở đi.